Bài viết này bàn
về một số nội dung liên quan đến chữ Mã馬 như sau:
1. Tại sao Mã馬 lại là ngựa?
2. Tại sao chồng của Công Chúa lại
gọi là PHÒ Mã !?
3. Họ Mã ở Lưỡng Quảng và VN có
gì đặc biệt so với Việt Tộc?
4. Ngày tết Đoan端 Ngọ午
5. Ngọ午 có phải là ngựa?
6. “Cửu ngũ chí
tôn”?
1. Tại sao Mã馬 lại là ngựa?
a) Về chữ viết
Sách Thuyết văn
giải tự (nguồn: https://ctext.org/dictionary.pl?if=en&id=32636) có chữ tượng
hình và cắt nghĩa như sau:
馬
象馬頭髦尾四足之形。
Tượng
MÃ đầu mao vĩ tứ túc chi hình.
Nghĩa là: Mã: tượng
hình đầu, đuôi, bốn chân ngựa.
Như vậy, về mặt
tượng hình thấy phù hợp: vẽ đầu ngựa có bờm (ba vạch ngang ở trên), 4 chân (bốn
chấm bên dưới) và đuôi (nét cong bên phải phía dưới).
b) Về âm đọc “Mã”
Chữ Mã 馬:
-
Âm
Hán Việt: Mã (Hán Việt: tiếng Việt do nhà Hán sử dụng)
-
Âm
tiếng Quan Thoại (Mandarin): Mã (phát âm hơi kéo dài so với người Việt)
-
Âm
tiếng Quảng Đông (Cantonese): Mạ (dấu nặng nghe có vẻ nhẹ hơn người Việt đọc)
-
Âm
tiếng Triều Châu (Chaozhou): có 2 âm là Be và Mà (bấm vào để nghe phát âm:
https://www.mogher.com/馬)
Chữ Nhã雅: có nghĩa là đẹp,
tốt
-
Âm
Hán Việt: Nhã
-
Âm
tiếng Quan Thoại (Mandarin): Dạ
-
Âm
tiếng Quảng Đông (Cantonese): Ớ
-
Tuy
nhiên, có 1 điều đặc biệt là sách Thuyết
văn còn ghi nhận thêm 1 âm nữa, đó là Ngã, Ngạ (Ngũ 五 Hạ下
thiết切). Âm Ngã, Ngạ này nói theo giọng miền Trung (hoặc Triều Châu, Phúc Kiến)
có thể trở thành Nghẽ, Nghẹ, Nghé hay
Ngõ, Ngọ…
Theo ông Đỗ Ngọc
Thành:
-
“NHÃ
là ĐẸP ! TRANG NHÃ ! TAO NHÃ ! NHO NHÃ ! PHONG NHÃ ! 雅- Nhã ! / đẹp !
-
Ngựa
là : ngưe , nghé / nghê = 雅 Tiếng Triều Châu : nghè nghé – 雅雅 = đẹp
-
Con
Trâu nhỏ , Trâu con thì gọi là “ nghé” cũng là vậy ! Nó bé ! Nó đẹp !
-
馬- Mả , Mẻ! Và Bé ( Triều Châu) .
-
Chữ
馬Bé của Triều
Châu mang nghĩa better / English = Tốt đẹp hơn!
Horse / English = Mả / ngựa ! Nhưng , phát âm đó bên tiếng Triều Châu có nghĩa là “Hảo – 好” tốt ! * tất cả phát âm Mà , Mả , Mẻ, Bé, nghé nghẹ / ngựa và horse đều là TỐT & Đẹp !”
Horse / English = Mả / ngựa ! Nhưng , phát âm đó bên tiếng Triều Châu có nghĩa là “Hảo – 好” tốt ! * tất cả phát âm Mà , Mả , Mẻ, Bé, nghé nghẹ / ngựa và horse đều là TỐT & Đẹp !”
(Kiểm chứng:
phát âm chữ Hảo tiếng Triều Châu là Ho hay Hò, bấm vào để nghe phát âm: https://www.mogher.com/好)
Ghi chú:
-
Thời nay một chữ mà vẫn có nhiều cách đọc ở các vùng miền
khác nhau (thí dụ “cá” thì Phú Yên, Bình Định phát âm là “ké”), và có nhiều chữ
cùng chỉ một vật, (ví dụ như thìa/ muỗng), nếu không có sách vở học hành thì
người ta nói chuyện có khi còn không hiểu nhau. Khi truy ngược lại nguồn gốc, ý
nghĩa tiếng nói, chữ viết thì ông Đỗ Ngọc Thành đã đi ngược lại ít nhất là vài
ngàn năm, nhiều là hàng mấy chục ngàn năm.
-
Thời đó tiếng nói chưa chuẩn nên thường biến đổi qua lại. Đây là điểm cần lưu ý khi truy tìm nguồn gốc, ý
nghĩa của từ ngữ.
-
Còn tại sao tiếng Anh (English) mà lại có liên hệ nguồn gốc
từ tiếng Việt, thì phải hiểu rằng sự đa dạng dân tộc ngày nay có chung một hoặc
chỉ một vài nguồn gốc chính từ xa xưa (ngành nhân loại học hiện nay sử dụng giả
thuyết rằng tất cả con người ngày nay đều xuất phát từ châu Phi, rồi mới di
chuyển khắp nơi và phân chia thành các dân tộc). Tương tự “cây di truyền” của
nhân loại, thì người ta cũng có mô hình giả thuyết về “cây ngôn ngữ”, gọi là proto-language
(https://en.wikipedia.org/wiki/Proto-language). Cây ngôn ngữ
được nghiên cứu nhiều nhất hiện nay là Proto-Indo-European, nghiên cứu về nguồn
gốc và sự giao thoa ngôn ngữ châu Á và châu Âu.
Như vậy, từ những
kiến giải của ông Đỗ Ngọc Thành, và âm đọc chữ Mã馬, ta có thể suy luận như sau:
-
Âm
“Ngựa” là biến âm từ chữ Nhã雅 mà ra (“nh” biến thành “ng”).
-
Âm
“Mã” có lẽ cũng biến âm từ chữ Nhã雅 mà ra (“nh”,
“n” biến thành “m”).
-
Âm
“Horse” có thể là biến âm từ chữ Hảo好 mà ra, có nghĩa
là “tốt”.
-
“Ngựa”,
“Mã”, “Horse” đều có nghĩa là “đẹp” hay “tốt” (Khi người ta nói “tốt đẹp”, thì
“đẹp” cũng đồng nghĩa với “tốt. Giống như trong tiếng Anh có chữ “Good”, hay
“Nice”, vừa mang nghĩa là tốt, vừa mang nghĩa là đẹp).
-
Như
vậy, con ngựa có các tên gọi “Ngựa”, “Mã”, “Horse” có các tên gọi như vậy đều bởi
vì nó là con vật Đẹp.
-
Ngày
nay, người ta vẫn có thói quen nói người hay con vật đẹp là “tốt mã”, đối với
những ai chưng diện quá mức thì gọi là “đồ ngựa”. Như vậy, không phải là vì so
sánh với con ngựa mà ra những cách dùng từ đó, mà thực ra là ngược lại: từ âm
Nhã雅, nghĩa là Đẹp,
đã sinh ra tiếng gọi Mã, Ngựa để chỉ con ngựa.
c) Một số kiến giải khác của ông
Đỗ Ngọc Thành:
-
Xanh
mới và tốt đẹp (tuổi thơ) bị biết thành ra 青梅竹馬-Thanh mai trúc
mã !
Tốt Mã và Trúc Mã là 1 ! * Thanh Trúc là măng non mới lớn lên để thành Trúc
xanh / Trúc xinh và Trúc xanh thì mới và đẹp được dùng bằng MỚI MẺ / MỚI MẢ.
-
Nước
Kiệu của Ngựa cũng như “ nước cờ” khi đánh cờ ! Nó chỉ là “ nét’ của “ bước “ /
các bước kế tiếp nhau của trình tự Bước – bước – bước …chữ “ Nước “ đó tương
đương với “Nét” và các Nét tạo ra Nét – Nét – Nét ….như NEXT/ English ví dụ :
Next step!
-
Nét
Kiệu của Ngựa phi là “nét kiêu ( kiêu hùng) / đẹp” ý khen dáng ngựa chạy đẹp –
kiêu hùng ! Và kiêu bị đọc là Kiệu !
驕傲 – kiêu ngạo ! Từ
nầy ý là “hãnh diện về sự kiêu hùng”! Và chữ 驕-Kiêu nầy dùng
đúng bộ Mã để nói”!
Nhận xét:
-
Như
vậy, có thể suy luận rằng chữ “nước” trong “ngựa phi nước kiệu/ đại” này không
phải “nước uống”, mà mang nghĩa là chữ “nước” nằm trong cụm từ “đường đi nước
bước”.
-
Ngoài
ra, chữ “bước” cũng là Bộ步 trong tiếng Hán Việt (nghĩa là bước
đi). Trong võ thuật cũng có các khái niệm về “mã bộ”, “mã bộ tấn”.
2. Tại sao chồng của Công Chúa lại
gọi là PHÒ Mã !?
a) Ý nghĩa chữ “Phò” trong “Phò
mã”:
-
Trong
cụm từ Phò Mã, chữ Phò viết là 駙, có một âm là Phò, một âm là Phụ.
-
Tự
điển Thiều Chửu giải nghĩa chữ Phụ/ Phò 駙 như sau:
1.
Con
ngựa đóng kèm bên xe.
2.
“Phụ
mã đô úy 駙馬都尉
một quan chức đời nhà Hán 漢. Từ đời nhà Tấn
晉 trở về sau, ai lấy công chúa tất được phong
vào chức ấy, vì thế nên chàng rể của vua gọi là Phụ Mã 駙馬”.
-
Ngoài
ra, Wikipedia viết như sau: “Xưa trong lịch sử phong kiến Trung Hoa từ đời Hán,
đời Ngụy, đời Tấn, khi Hoàng đế tuần du, các cỗ xe lập thành từng đội trong đó
xe Hoàng đế gọi là “chính xa”, xe của các quan thị tòng là “phó xa”. Tuy nhiên,
các xe đều giống nhau với mục đích tránh không cho thích khách biết hoàng đế ngồi
xe nào. Những người chỉ huy các xe gọi là Phò Mã Đô Úy (駙馬都尉)”. (nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Phò_mã)
Như vậy, theo tự
điển Thiều Chửu, thì gọi là “Phò Mã” (hay “Phụ Mã”) đều là cách người ta gọi tắt
chức quan “Phụ mã đô úy” (người chỉ huy xe ngựa) được phong cho những người lấy
công chúa (theo lệ từ đời nhà Tấn).
b) Kiến giải của ông Đỗ Ngọc
Thành:
-
Quan
lo về Mả / Ngựa ngày xưa rất quan trọng ! …cũng như tài xế của ông lớn hiện giờ
! Biết hết bí mật và nắm giử cộng việc + sinh mạng của sếp!
-
Vì
sợ bị mua chuột và sát hại ! Cho nên Vua ngày xưa luôn ép gả Công Chúa cho cho
Quan 駙馬-Phò
– Mả / đánh xe ngựa chở Vua ! …dùng Mỹ Nhân Kế và biến thành người
nhà cho an tâm ! Chứ “Phò Mả” chẳng có nghĩa gì là “ chồng của công chúa” !
-
Riết
rồi …trở thành “ luật bất thành văn” , cho nên gọi chồng của Công Chúa là “ Phò
Mả” !
Nhận xét:
-
Link
Wikipedia đã dẫn cũng có viết như sau: “Nhưng cũng đã từng có một vụ hành thích
Hoàng đế bởi chính một quan Phụ Mã Đô Úy nên tương truyền từ đời Tấn, Tư Mã
Viêm là người đầu tiên quy định chỉ con rể của mình mới được đảm nhiệm chức Phụ
Mã Đô Úy, để tránh sự kiện như từng xảy ra trong lịch sử. Về sau, các Hoàng đế
cũng áp dụng thông lệ này, chỉ các Hoàng tế mới được phong Phò Mã Đô Úy.”
-
Vậy,
cách kiến giải của ông Đỗ Ngọc Thành rất hợp lý.
3. Họ Mã ở Lưỡng Quảng và VN có
gì đặc biệt so với Việt Tộc?
a) Sơ lược về Lưỡng Quảng:
-
Lưỡng
Quảng, là gọi chung vùng đất Quảng Đông và Quảng Tây thuộc nước Trung Quốc ngày
nay.
-
Ngày
xưa Lưỡng Quảng cũng gọi là Lưỡng Việt, là vùng đất của người Việt Đông và Âu
Việt (hay Tây Âu, Việt Tây), đều thuộc Bách Việt. Trong “Truyện Kiều” có câu “Họ
Từ tên Hải vốn người Việt Đông”, chính là vì vậy. Ngày nay, tiếng Quảng vẫn được
người Quảng gọi là “Duyệt” ngữ, cũng chính là Việt ngữ thuộc Bách Việt mà thôi
(khác xa tiếng Bắc Kinh, vốn là “tiếng lai” ảnh hưởng bởi người Mãn Châu không
thuộc về Bách Việt).
-
Thời
vua Việt là Triệu Đà, thì Việt Đông và Việt Tây cũng thuộc lãnh thổ nước Nam Việt.
Cho nên sau này mới có chuyện vua Quang Trung đòi Càn Long (nhà Thanh) 2 tỉnh
này (nguồn: http://timhieulichsuvn.blogspot.com/2017/01/quang-trung-con-song-lieu-ong-co-lay.html). Nhưng Quang
Trung chết sớm, mấy năm sau, Nguyễn Ánh muốn đặt tên nước là Nam Việt, nhưng
Gia Khánh sợ như vậy về sau nhà Nguyễn lại đòi Lưỡng Quảng nữa, nên kêu đổi tên
thành Việt Nam, rốt cuộc Nguyễn Ánh làm theo. Cũng là vua, nhưng chí của Nguyễn
Ánh thua Quang Trung xa lắm.
-
Nói
như vậy cũng để cho biết, rằng Triệu Đà vốn là người Bách Việt, và được công nhận
là một ông vua đúng nghĩa của nước Nam Việt, do đó trong ‘Bình Ngô đại cáo’,
Nguyễn Trãi đã viết “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập” là có lý
do; còn người sau muốn bỏ tên vua Triệu Đà (Triệu Vũ Vương), là chưa hiểu vấn đề.
b) Kiến giải của ông Đỗ Ngọc
Thành về họ Mã:
-
Họ
馬-Mã
ở Lưỡng Quảng và VN là con cháu người Ả Rập ! Bắt nguồn oma, osama, Mohamed v
v…khi định cư thì đỗi qua họ “ Ma / Mả” !
-
Họ
đến làm ăn đông nhất thời nhà Đường đến nhà Tống …
-
Con
Cháu Mã Siêu có nhiều người hiện giờ lại đang ở vùng Trung Đông
c) Phân tích:
Về phiên âm tên:
-
Tên
của Osama Bin Laden tiếng Hoa ngày nay phiên âm như sau: Áo奧Tát萨MÃ馬·Bổn本·Lạp拉Đăng登
(https://zh.wikipedia.org/w/index.php?title=Special:搜索&search=Osama+bin+Laden)
-
Tên
của Muhammad (Mô-ha-mét) phiên âm như sau: Mục穆Hãn罕Mặc默Đức德
-
Tên
của Omar Sharif phiên âm như sau: Áo奧MÃ馬·Sa沙Lí里Phu夫
-
Tên
của Ô Mã Nhi, tiếng Anh là: Omar.
-
Tên
của Mã Siêu, tiếng Anh là: MA Chao.
Về Mã Siêu:
-
Theo
Wikipedia, Mã Siêu “là con lai giữa người Hán và rợ Khương” (https://vi.wikipedia.org/wiki/Mã_Siêu)
-
Theo
một thông tin, thì có 1 nhánh con cháu Mã Siêu đã sang Ba Tư, rồi đến Armenia: https://nld.com.vn/thoi-su-quoc-te/con-chau-quan-cong--ma-sieu-20100203103348754.htm
Về họ Mã ngày
nay:
-
Theo
Wikipedia, họ Mã đặc biệt phổ biến trong cộng đồng người Hồi.
(https://vi.wikipedia.org/wiki/Mã_(họ))
-
Ngoài
ra, trang Wiki này cũng ghi rằng “Họ này có gốc từ nước Triệu thời chiến quốc”,
tuy nhiên không thấy dẫn nguồn.
Về nguồn gốc họ
Mã:
-
Khi
người ta qua nước khác, thông thường sẽ tìm những cái tên của nước mới có âm gần
với tên cũ của mình để dễ đọc/ phiên âm. Thí dụ như Khánh sẽ lấy tên Kenny,
Tùng lấy tên Tommy… Như vậy, việc các tên Osama, Omar… trong tiếng Ả Rập của
người Hồi giáo đổi thành tên/ họ Mã khi sang Bách Việt sinh sống là hợp lý.
-
Còn
về nghĩa, thì chữ “Mã” là con ngựa, thì dựa vào suy lý cũng thấy được khả năng
gắn kết với văn hóa du mục của người Hồ (chỉ các dân tộc phương Bắc và phương
Tây của Bách Việt, bao gồm người Địch, Hung-nô, Khương (có thể Khiết-Đan ~ Khan
= Khương), Hồi, Tây Hạ, Mông Cổ, Mãn Châu…), hơn là văn hóa trồng trọt của Bách
Việt.
4. Ngày tết Đoan端 Ngọ午:
Ở VN và TQ có tết “Đoan端 Ngọ午”, hay còn gọi
là “Đoan端 Dương陽”, “Đoan端 Ngũ五”, vào ngày mùng
5 tháng 5 âm lịch.
-
Tháng
Ngọ chính là tháng 5 âm lịch (new moon nằm ở Gemini, tương ứng cung Ngọ), nên
còn gọi là “Đoan Ngũ”. “Ngũ” là 5, mà “Ngũ” với “Ngọ” âm cũng rất giống nhau,
không rõ cái nào có trước cái nào.
-
Còn
gọi là “Đoan Dương”, có lẽ vì ngày hạ chí 21/6 nằm trong tháng 5 âm lịch. Theo
1 góc nhìn nhất định thì đây là ngày “chí dương陽”, vì là ngày có
mặt trời (cũng là dương陽) gần trái đất nhất, và có thời gian ban
ngày dài nhất trong năm.
o Ngoài tháng ngọ
là tháng 5 âm lịch, có hạ chí; thì giờ Ngọ chính là giờ giữa trưa, khi mặt trời
ở trên đỉnh đầu, và đây có thể xem là thời điểm “chí dương” trong 1 ngày.
o Vị trí mặt trời
vào giờ Ngọ có thể xem là trùng với Mid-heaven (MC), tức là thiên đỉnh, trong
Astrology chart, đây là vị trí trên đỉnh đầu của vòng tròn. Vào lúc giữa trưa,
thì Sun sign luôn nằm ở vị trí này (bất kể đang thuộc cung hoàng đạo nào).
-
Thường
khi nói giữa trưa, người ta sẽ nói là “chính Ngọ”. Chữ Đoan端 tự điển cũng giải
nghĩa là “Ngay ngắn, ngay thẳng, chính trực”. Như vậy, có lẽ “Đoan Ngọ” đơn giản
là “Chính Ngọ”.
5. Ngọ午 có phải là con ngựa, hay chỉ là gần âm?
Theo quan niệm
hiện tại, thì 12 chữ Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi
được xem là 12 con giáp, tương ứng với 12 con vật, lúc thì chỉ giờ (giờ Tý, giờ
Ngọ…), lúc thì chỉ năm (năm Tý, năm Sửu…). Tuy nhiên, tại sao lại là 12 và là
những con vật đó, thì chưa thấy ai lý giải được rõ ràng, hợp lý.
Vì bài này bàn về
chữ Mã馬,
là con ngựa, nên cũng nêu vấn đề chữ Ngọ午 ra để xem xét.
a) Kiến giải của ông Đỗ Ngọc
Thành:
-
Theo
như chữ “ tượng hình” thì chữ “ 午- Ngọ “ của giờ
Ngọ hoàn toàn không có “hình bóng” của con Ngựa ! So với chữ 馬Mả thì rõ ràng
hoàn chỉnh hình vẽ con Ngựa có 4 chân ! Vậy , có thể thấy chữ 馬Mả chính là Ngựa
và chữ 午Ngọ
có lẽ không phải Ngựa hoặc chắc chắn không phải Ngựa !
-
Nhưng!
Tại sai người ta lại hiểu theo 午-Ngọ là Ngựa ! ? thì chúng ta phải
so sánh qua 1 chữ Khác ! Đó là chữ 牛Ngưu ! chữ Ngưu cũng
quá kỳ lạ gì đã là chữ Tượng hình mà chữ Ngưu cũng không thấy được là vẽ hình của
Ngưu ! Bởi vậy cho nên …từ xa xưa đến nay có Thuyết 牛Ngưu và 魚Ngư đã bị lẫn lộn
!
-
Lại
so sánh chữ 午-Ngọ và chữ 牛- Ngưu ! 2 chữ nầy
rất giống nhau ! Chỉ khác là “ đầu “ nhô lên thì là “ 牛-Ngưu” và “ mất đầu”
thì là 午-
Ngọ ! * nếu như đã là chữ “ tượng hình” thì trình bày “ Ngựa “ là mất đầu thì
càng thấy là vô lý !
-
Cho
nên có lẽ chính là Ngưu và Ngư đã bị lẫn lộn là sự thật ! Vì theo chữ vẽ hình /
tượng hình thì thấy rõ “ con nào có 4 chân” và “ con nào chỉ có cái đuôi” !
-
Còn
Chữ 馬Mả chính là Ngựa
cũng có 4 chân !
* trong khi chữ Ngọ là chỉ thời khắc của giờ 午-Ngọ ! và nó rõ ràng thể hiện chữ 干-Can là cây , cây thước đo bóng Mặt trời để biết thời khắc của ngày ! Và 干-Can kèm theo 1 nét thể hiện Đứng bóng giữa trưa thì đúng là giờ Ngữa , Ngựa / ngó / 午-ngọ thẳng lên là hướng Mặt trời !
* trong khi chữ Ngọ là chỉ thời khắc của giờ 午-Ngọ ! và nó rõ ràng thể hiện chữ 干-Can là cây , cây thước đo bóng Mặt trời để biết thời khắc của ngày ! Và 干-Can kèm theo 1 nét thể hiện Đứng bóng giữa trưa thì đúng là giờ Ngữa , Ngựa / ngó / 午-ngọ thẳng lên là hướng Mặt trời !
-
Có
thể hiểu phát âm Ngữa , Ngó / Ngọ còn có nghĩa là “ Thẳng đứng “ ! Cho nên Con
Mả luôn luôn đứng ( không bao giờ ngồi hay nằm ! / luôn cả khi ngủ) thì người
ta mới gọi là con Ngựa ! – Thẳng đứng lại mang ý nghĩa đẹp ! Như chữ “ 文- văn” là vuông
! Cho nên đứng cạnh nào cũng đứng ! Và nó đã mang nghĩa là đẹp ! / văn minh,
văn hoá , văn chương V v…, Thẳng , Đứng , là đẹp ! Cho nên “ Ngựa” cũng là Đẹp
! Thì lại phù hợp với âm “ Mả” luôn có nghĩa là Tốt ! Là đẹp !
-
Về
phát âm “ Ngựa” thì Đúng là “ Mả” ! Nhưng, chữ “ Ngọ “ thì không phải ! Mà chỉ
là sự trùng âm nói về bóng nắng thẳng đứng ! Cho nên chữ 午-Ngọ đã vẽ hình
“Cây thước đo cắm xuống đất đo bóng nắng và Mặt trời đang đứng bóng !
b) Phân tích:
-
Có
thể xác định chắc chắn 1 điểm: chữ Ngọ午 xưa nay vẫn
dùng để chỉ “giờ Ngọ”, là khoảng thời gian giữa trưa, khi mà mặt trời lên đến đỉnh
đầu.
-
Phân
tích chữ tượng hình của ông Đỗ Ngọc Thành rằng chữ Ngọ午 là “Cây thước
đo cắm xuống đất đo bóng nắng và Mặt trời đang đứng bóng” là hợp lý, bởi vì:
o
Khi
so sánh chữ Dậu酉 với chữ Tây西 ta sẽ thấy 2 chữ
này hết sức giống nhau, chỉ khác là chữ Dậu có thêm một nét ngang.
o
Mà
chữ Tây西
chính là chữ tượng hình, vẽ hình mặt trời lặn xuống dưới núi, và phương mặt trời
lặn chính là phương Tây西. Như vậy, chữ Dậu酉, tức giờ Dậu,
cũng là tượng hình thời điểm mặt trời lặn ở đường chân trời.
-
Tuy
nhiên, việc Ngọ - Ngựa chỉ là tình cờ trùng/ gần âm, hay là có nguyên nhân thì
cũng cần xem xét thêm.
-
Ta
có thể đặt 1 giả thuyết để xem xét như sau: Tên của mỗi một canh giờ (sau này
trở thành 1 cung Tử vi) đều được cố ý đặt tên theo 1 con vật để dễ nhớ (ngày
xưa chưa có giấy bút ghi chép, nên việc đặt thêm từ ngữ mới là rất khó khăn).
o
Với
giả thuyết này, thì chữ 午 không phải nghĩa là “con Ngựa” (như chữ
Mã馬), mà nghĩa là
“Giờ Ngọ/ Ngựa”. (ta cũng thấy rằng người ta gọi là ngày Đoan Dương, Đoan Ngọ,
Đoan Ngũ, chứ không nghe ai gọi “Đoan Mã” hay “Đoan Ngựa” cả)
o
Tại
sao lại đặt tên như vậy, thì có thể cũng là dựa theo những đặc điểm nào đó của
con vật, giống như 1 ý ông Đỗ Ngọc Thành đã chỉ ra rằng “phát âm Ngữa, Ngó / Ngọ
còn có nghĩa là “Thẳng đứng” ! Cho nên Con Mả luôn luôn đứng”. (có thể liên hệ
rằng 12 biểu tượng cho các cung hoàng đạo của chiêm tinh phương Tây cũng là
mang ý nghĩa tượng trưng)
o
Đối
với chữ Thân và con khỉ, thì có 1 bài viết của ông Nguyễn Văn Huy chỉ ra rằng
chữ Thân申 và Khôn坤 thời xưa vốn là
đồng âm với nhau (chữ Khôn坤 là chữ hình thanh, mượn âm của
Thân申 và bộ thổ土 để chỉ nghĩa), và con Khỉ cũng
còn được gọi là Khôn hay Khọn. Do đó, giờ Thân ứng với con Khỉ. Nguồn: https://www.facebook.com/tranvietx/posts/406338189887165 (còn tại sao chọn
con Khỉ để chỉ giờ Thân, thì có lẽ cần phải tìm hiểu thêm)
Thực sự mà nói,
việc xác định phát xuất và ý nghĩa của tên gọi 12 con giáp không đơn giản, vì vừa
phải lý giải hợp lý được nguồn gốc các tên gọi, mà lại phải có tính hệ thống.
Nghĩa là phải tìm được 1 một mô hình thống nhất (hoặc tương đối thống nhất) giải
thích được cho cả 12 canh giờ/ con giáp, chứ không phải con giáp này thì giải
thích theo cách này, con giáp kia thì giải thích theo cách kia. Và có lẽ là phải
giải thích được là:
1) Tại sao lại
là 12 mà không phải là 8, 16, 24, 36…?
2) Tại sao Tý, Sửu,…
Hợi lúc là “canh giờ” (chỉ giờ), lúc là “con giáp” (chỉ năm)?
3) Tại sao lại gọi
là Tý, Sửu…, Hợi?
4) Những chữ Tý,
Sửu…, Hợi có thật là liên quan đến các con vật không và tại sao lại như vậy?
Bài viết này
chưa giải quyết được vấn đề đó, chỉ đặt ra ở đây để người đọc cùng xem xét
thêm.
No comments:
Post a Comment